PHÂN TÍCH CƠ BẢN VÀ PHÂN TÍCH KỸ THUẬT TRONG GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
Để có thể đưa ra quyết định mua hoặc bán bất kỳ thứ gì thì việc đầu tiên chúng ta cần làm đó là phân tích. Trên thị trường chứng khoán cũng không ngoại lệ, công việc phân tích chứng khoán là vô cùng cần thiết đối với mọi thành phần tham gia trên thị trường bất kể là nhà đầu tư hay nhà đầu cơ. Phân tích chứng khoán về cơ bản gồm 2 phương pháp chính là Phân tích cơ bản và Phân tích kỹ thuật. Hãy cùng Loanh Quanh Thị Trường tìm hiểu rõ hơn điểm khác nhau giữa 2 phương pháp này nhé!
Phân tích cơ bản (Fundamental analysis)
Phân tích cơ bản là phương pháp nhằm xác định giá trị nội tại của cổ phiếu trên thị trường bằng cách kiểm tra các tác nhân cơ bản có tác động hoặc làm thay đổi đến giá cổ phiếu.
Cụ thể, nhà phân tích cơ bản tập trung xem xét các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, các phân tích vĩ mô như phân tích ngành mà công ty đang hoạt động, phân tích trạng thái nền kinh tế hay phân tích vi mô như mô hình hoạt động và hiệu quả quản lý của công ty để ra quyết định đầu tư. Từ đó, hoạt động phân tích cơ bản hỗ trợ NĐT đánh giá giá trị hiện tại của mã chứng khoán và kỳ vọng giá trong tương lai của cổ phiếu đó.
Phân tích kỹ thuật (Technical Analysis)
Phân tích kỹ thuật không giống với phân tích cơ bản. Ở phương pháp này, các nhà phân tích sẽ căn cứ vào biểu đồ, đồ thị diễn biến giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu nhằm phân tích các biến động cung - cầu đối với cổ phiếu và từ đó, đưa ra khuyến nghị mua - bán cổ phiếu trên thị trường.
Xét về bản chất, quan điểm phân tích kỹ thuật cho rằng có mẫu hình trong quá khứ có xu hướng quy luật (lặp lại) vì vậy có thể dùng để dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai.
Phân tích cơ bản và Phân tích kỹ thuật
1. Mục tiêu
- Phân tích cơ bản: Các nhà đầu tư sử dụng phương pháp này với mục đích xác định xem liệu doanh nghiệp đang được định giá thấp hơn hay cao hơn so với giá trị nội tại, từ đó đưa ra các quyết định mua/bán phù hợp.
- Phân tích kỹ thuật: Các nhà đầu tư và các nhà đầu cơ sử dụng các mô hình biểu đồ giá, kết hợp cùng khối lượng giao dịch và các công cụ, chỉ bảo với mục đích nhằm dự báo trước đà tăng/giảm của giá cổ phiếu, từ đó đưa ra các quyết định mua/bán phù hợp nhằm kiếm lợi.
2. Nguồn dữ liệu
- Phân tích cơ bản: sử dụng đến các thông tin đến từ báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, báo cáo tình hình kinh tế vĩ mô… để có thể thu thập dữ liệu về tình hình kinh doanh, sức khỏe tài chính của doanh nghiệp nói riêng và tình hình kinh tế vĩ mô nói chung.
- Phân tích kỹ thuật: chủ yếu dựa trên các dữ liệu lịch sử về giá và khối lượng giao dịch của các cổ phiếu. Các dạng dữ liệu này sẽ được biểu diễn dưới nhiều dạng biểu đồ như biểu đồ nến, biểu đồ dạng đường…
3. Công cụ phân tích
- Phân tích cơ bản: các chỉ số tài chính như P/E, EPS, P/B, P/S… và kết hợp cùng các công thức, phương pháp định giá doanh nghiệp như DCF, FCFF, FCFE…
- Phân tích kỹ thuật: các mẫu hình biểu đồ nến, các bộ chỉ báo kỹ thuật hay nói cách khác là dựa vào biến động giá và các diễn biến trên biểu đồ.
Ưu điểm và nhược điểm của 2 phương pháp
1. Ưu điểm
- Phân tích cơ bản: Việc đo lường giá trị nội tại của công ty sẽ giúp các nhà đầu tư tìm và đầu tư vào những cổ phiếu bị định giá thấp và tránh những cổ phiếu bị định giá cao hơn giá trị nội tại. Việc phân tích các yếu tố cơ bản của một doanh nghiệp còn giúp các nhà đầu tư hiểu rõ hơn về tình hình tài chính, kinh doanh của công ty đó.
- Phân tích kỹ thuật: Phân tích kỹ thuật thường tập trung vào các xu hướng ngắn hạn và diễn biến giá thường diễn ra trước phân tích cơ bản. Phân tích kỹ thuật với rất nhiều các chỉ báo kỹ thuật và mô hình giá, sẽ giúp các nhà đầu tư xác định các điểm mua/bán với xác suất thành công cao sau khi được kiểm chứng.
2. Nhược điểm
- Phân tích cơ bản: Phân tích cơ bản thường tiêu tốn nhiều thời gian và công sức của các nhà đầu tư bởi độ phức tạp và yêu cầu mức độ hiểu biết về doanh nghiệp cao. Tuy vậy, mức độ chính xác của kết quả phân tích vẫn còn nhiều hạn chế bởi vì kết quả phân tích có mang tính chủ quan từ phía người phân tích. Bên cạnh đó, độ chính xác của việc phân tích còn phụ thuộc vào tính tin cậy và chính xác của báo cáo tài chính mà công ty đưa ra vì các công ty hoàn toàn có thể có những hành vi gian lận, xào nấu báo cáo tài chính, từ đó gây ảnh hưởng tới kết quả của việc phân tích.
- Phân tích kỹ thuật: Phương pháp Phân tích kỹ thuật khi được sử dụng đơn lẻ sẽ không quan tâm tới giá trị nội tại của doanh nghiệp, điều này sẽ khiến các nhà phân tích kỹ thuật có thể thực hiện mua/bán đối với những doanh nghiệp yếu kém nhưng lại được làm giá nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư mua vào.
Kết luận
Nhìn chung, để so sánh Phân tích cơ bản và Phân tích kỹ thuật thì chúng ta không thể kết luận được phương pháp nào nên dùng hay phương pháp nào tốt hơn. Việc lựa chọn phương pháp đầu tư sẽ phụ thuộc vào mục tiêu, chiến lược và khả năng phân tích của mỗi nhà đầu tư khác nhau, đồng thời việc kết hợp sử dụng hài hoà cả 2 có thể các nhà đầu tư tận dụng được ưu điểm và khắc phục nhược điểm của mỗi phương pháp.